Học giả Phạm Quỳnh là một trong những người tiên phong cổ vũ chữ Quốc ngữ. Nguồn ảnh: Tư liệu của TS Nguyễn Thụy Phương chụp Tạp chí L’Asie Nouvelle xuất bản năm 1937.

Chữ Quốc ngữ gắn liền với tiếng Việt như hình với bóng có thể làm tốt nhất chức năng ghi chép, trao đổi, kế thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc ta...

Nước ta bao đời nay chỉ dùng tiếng Việt, tức tiếng nói của dân tộc Kinh chiếm đa số tuyệt đối trong cộng đồng 54 dân tộc. Tiếc thay dân tộc ta có chữ viết quá muộn, vì thế nền văn minh Việt Nam phát triển chậm.

Chữ viết đầu tiên ta dùng là chữ Hán do người Trung Quốc mang đến khi họ xâm chiếm nước ta khoảng hơn 2000 năm trước. Đó là loại chữ biểu ý (ideograph) tách rời tiếng nói, vì thế tổ tiên ta đã nghĩ ra cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt; nhờ đó mượn được chữ Hán làm chữ của mình, và gọi thứ chữ đã Việt Nam hóa phần ngữ âm ấy là chữ Nho. Trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta dùng chữ Hán nhưng không nói tiếng Hán, nhờ vậy đã giữ nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ, tránh được thảm họa tiếng Việt bị diệt vong bởi sự đồng hóa ngôn ngữ của văn minh Trung Hoa. Nguyên lý bài học giữ nước ấy của tổ tiên ta được học giả Phạm Quỳnh tóm tắt trong câu nói “Tiếng ta còn (thì) nước ta còn!”.

Nhưng chữ Hán không ghi được tiếng Việt, vì thế không phản ánh được tâm tư tình cảm của dân ta, chỉ được tầng lớp trên độc quyền sử dụng trong một số lĩnh vực hẹp. Để thoát khỏi hạn chế đó, thế kỷ XII tổ tiên ta làm ra chữ Nôm ghi được tiếng Việt. Chữ Nôm cấu tạo trên nền tảng chữ Hán, biết chữ Hán mới học được chữ Nôm. Vì khó học khó dùng lại không được chính quyền thừa nhận nên rốt cuộc chữ Nôm bị loại bỏ. Nhưng văn học chữ Nôm với các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… đã tỏ ra hơn hẳn văn học chữ Nho.

May sao cuối cùng chúng ta được thừa hưởng chữ Quốc ngữ, một loại chữ biểu âm (phonograph) Latinh hóa thích hợp với tiếng Việt, do các nhà truyền đạo Kitô sáng tạo vào thế kỷ XVII. Đây là món quà vô giá mà văn minh phương Tây, văn minh Kitô giáo tặng cho dân tộc Việt Nam. Chữ Quốc ngữ đã đưa nước ta tiến sang một thời kỳ phát triển mới.

Với ưu điểm ghi được toàn bộ ngữ âm tiếng Việt, lại dễ học, dễ nhớ, chữ Quốc ngữ đã nhanh chóng được dân ta tiếp nhận. Các nhà Nho tiên tiến đi đầu truyền bá loại chữ mới này và lên án chữ Hán đã kìm hãm xã hội ta. Tiến sĩ Hán học Trần Quý Cáp nói "chữ Quốc ngữ là hồn trong nước, phải đem ra tính trước dân ta". Phó bảng Phan Châu Trinh nhận xét việc học chữ Hán “khiến cho người nước ta tối tăm, mù mịt, mềm yếu, ươn hèn” (“Thư gửi toàn quyền Đông Dương” 8/1906, viết chữ Hán, Ngô Đức Kế dịch) và hô hào "Không bỏ chữ Hán thì không cứu được nước Nam". Cũng có một số ít nhà Nho phản đối chữ Quốc ngữ, chê thứ chữ này ngoằn ngoèo như con giun lại chẳng có ý nghĩa gì cả. Nhưng họ không ngăn cản được xu hướng ủng hộ chữ Quốc ngữ của số đông.

Hơn ai hết, giới nhà Nho tiến bộ hiểu rõ các nhược điểm của chữ Hán – khó học, khó nhớ, khó viết, khó dùng, không ghi được tiếng Việt – do đó họ thấy ngay các ưu điểm của chữ Quốc ngữ. Đây là chữ viết của toàn dân, không như chữ Hán chỉ tầng lớp trên độc quyền sử dụng, qua đó độc quyền tri thức. Hầu hết nhà Nho làm nghề dạy học, cho nên họ đi đầu dạy thứ chữ mới này. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục đầu tiên tổ chức dạy Quốc ngữ với quy mô lớn giữa Thủ đô, thu kết quả bất ngờ. Xuất hiện cảnh tượng chưa từng thấy: Trường Nghĩa thục đứng đầu dạy dỗ/ Khắp ba mươi sáu phố Hà thành/ Gái trai nô nức học hành/ Giáo sư tám lớp, học sinh non ngàn…

Các nhà cách mạng Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục đã sử dụng phong trào học chữ Quốc ngữ để phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng đất nước theo phương châm Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, với khai dân trí là trước hết dạy dân học; khi biết chữ dân chúng sẽ tự giác đấu tranh đòi độc lập, tự do, dân chủ.

Ngôn ngữ là công cụ tư duy; chữ viết là công cụ ghi chép ngôn ngữ, tức ghi chép tư duy. Khi chưa có chữ viết thì tư duy không được ghi lại, do đó không được lưu trữ và giao lưu, kế thừa; vì thế trí tuệ bị kìm hãm không phát triển được. Chữ Quốc ngữ gắn liền với tiếng Việt như hình với bóng có thể làm tốt nhất chức năng ghi chép, trao đổi, kế thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc ta. Chữ Hán tách rời tiếng Việt, và chữ Nôm khó hơn chữ Hán không làm được chức năng đó. Học giả Phạm Quỳnh nói "chữ Quốc ngữ là công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt Nam".

Chữ Quốc ngữ là công cụ tốt nhất để dịch các ngôn ngữ khác thành tiếng Việt, nhờ thế dân tộc ta biết tới các thành quả tiến bộ xã hội của nhân loại. Ngay từ năm 1907 Ban Tu thư Đông Kinh Nghĩa Thục đã chuyển được nội dung nhiều “Tân thư” chữ Hán-Nhật thành chữ Quốc ngữ và in ra, phát không cho đồng bào. Lần đầu tiên những tư tưởng tiên tiến như bình đẳng, tự do, dân chủ, nhân quyền… du nhập đã thức tỉnh dân ta. "Hải ngoại Huyết thư" Phan Bội Châu viết bằng chữ Hán được nhà Nho Lê Đại chuyển thành thơ Quốc ngữ với những câu kích động lòng yêu nước như "Cờ độc lập xa trông phấp phới, Kéo nhau ra đòi lại nước nhà" được đồng bào học thuộc lòng truyền đi khắp nơi đã khiến thực dân Pháp hoảng sợ. Từ đó trở đi tất cả các phong trào chính trị đều dùng chữ Quốc ngữ để truyền bá học thuyết, quan điểm của mình. Chữ Quốc ngữ đã góp phần quyết định nâng cao dân trí, qua đó thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng đất nước khỏi ách thực dân phong kiến tiến tới thắng lợi cuối cùng.

Chữ Quốc ngữ có khả năng chuyển được kho tàng tri thức văn minh nhân loại thành tiếng Việt, qua đó giúp dân ta thừa hưởng các thành tựu khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội-nhân văn và văn học nghệ thuật của thế giới, đẩy lùi các quan điểm lạc hậu và nạn mê tín dị đoan, thực hiện hiện đại hóa xã hội. Năm 1881 "Gia Định Báo" đăng nhiều kỳ bản tiếng Việt tác phẩm văn học phương Tây đầu tiên do Trương Minh Ký dịch, đánh dấu sự ra đời ngành dịch thuật ở ta. Trong thế kỷ XX ngành này phát triển mạnh, hầu hết tác phẩm lớn của văn học nước ngoài đã được người Việt biết tới. Các thư tịch chữ Nho, Nôm của tổ tiên ta đều phải dịch ra Quốc ngữ thì con cháu mới có thể đọc hiểu. Năm 1875, Trương Vĩnh Ký cho ra mắt Truyện Kiều bản chữ Quốc ngữ, được nhiệt liệt hoan nghênh. Cho tới nay nhiều thư tịch Hán Nôm đều đã được chuyển ngữ thành Quốc ngữ, nhờ thế các thế hệ sau không bị đứt quãng với di sản văn hóa cổ.

Chữ Quốc ngữ thuận tiện nhất dùng để viết văn, làm thơ… qua đó hình thành nền văn học tiếng Việt của toàn dân, không như văn học Hán/Nôm chỉ do tầng lớp trên độc quyền sở hữu. Năm 1887 Sài Gòn xuất bản tiểu thuyết chữ Quốc ngữ "Thầy Lazaro Phiền" của Nguyễn Trọng Quản, đánh dấu sự ra đời văn học tiểu thuyết tiếng Việt. Tại Hà Nội năm 1925 Hoàng Ngọc Phách cho ra mắt "Tố Tâm", tiểu thuyết Quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc. Trong thế kỷ XX văn học tiếng Việt phát triển như vũ bão, xuất hiện nhiều nhà văn nhà thơ nổi tiếng. Chữ Quốc ngữ đã góp phần quan trọng hình thành Thơ Mới, loại thơ không tuân theo luật của thơ cổ.

Do giúp chuyển tải nhanh chóng các kiến thức thể hiện bằng chữ alphabet của văn minh phương Tây, như toán học, hóa học, vật lý học… nên chữ Quốc ngữ trở thành bà đỡ cho sự ra đời ngành giáo dục toàn dân ở nước ta. Năm 1906, phong trào Duy Tân đi đầu mở hàng chục trường dân lập dạy chữ Quốc ngữ ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, gây nên cao trào học chữ trong cả nước, nổi bật là Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội. Cao trào đó tạo sức ép khiến chính quyền cai trị phải mở trường dạy chữ Quốc ngữ ở các tỉnh, hình thành hệ thống giáo dục toàn dân.

Chữ Quốc ngữ góp phần quyết định sự ra đời ngành thông tin, truyền thông, đầu tiên là báo chí, xuất bản. Ngày 15/4/1865, tờ “Gia Định báo” in chữ Quốc ngữ ra mắt số đầu tiên, đánh dấu sự xuất hiện "Quyền lực thứ 4" ở Việt Nam. Ngành báo chí nhanh chóng phát triển, làm cho đời sống tinh thần dân ta trong một thời gian ngắn có bước tiến chưa từng thấy theo hướng dân chủ hóa. Báo chí trở thành nơi gây dựng phong trào viết tiếng Việt.

Cũng vậy, nước ta khó có thể phát triển được ngành xuất bản, bưu chính viễn thông nhanh đến vậy nếu không dùng chữ Quốc ngữ. Chữ alphabet thuận tiện cho việc chế tạo và dùng máy chữ, sắp chữ in, mã hóa chữ thành tín hiệu điện…

Việc sử dụng chữ Quốc ngữ đã tạo điều kiện hình thành tầng lớp trí thức mới, với đại diện đầu tiên là những người tiếp thu tốt cả hai nền văn minh Đông và Tây như Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Tố, Phạm Quỳnh… Họ đả phá thói xấu xưa sùng bái chữ Hán nay sùng bái tiếng Pháp, chung kiếp làm nô lệ tinh thần cho nước ngoài (lời Phạm Quỳnh). Họ đi đầu phong trào viết tiếng Việt, ra sức xây dựng nền văn học Việt Nam độc lập tự chủ.

Chữ Quốc ngữ còn giúp nước ta "Thoát Hán" về ngôn ngữ. Việt Nam, Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên thời xưa đều dùng chữ Hán. Sau khi thấy mặt hạn chế của thứ chữ ấy, cả ba xứ đều tìm cách thoát ra. Thế kỷ XV bán đảo Triều Tiên làm được chữ Hangul là loại chữ ghi âm có thể thay chữ Hán; nhưng phải đến năm 1948 hai miền Nam, Bắc Triều Tiên mới chính thức bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ Hangul. Tuy vậy hiện nay Hàn Quốc vẫn phải dùng một số chữ Hán để ghi chú các từ ngữ đòi hỏi chính xác, như họ tên trong giấy Căn cước, từ ngữ pháp lý trong các văn bản,…
Nước ta chính thức bắt đầu "Thoát chữ Hán" từ năm 1919. Chữ Quốc ngữ đã cứu dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Pháp đồng hóa về ngôn ngữ.
Người Nhật thuở xưa dùng rất nhiều chữ Hán để ghi âm tiếng Nhật. Thế kỷ IX họ sáng tạo ra chữ Kana là chữ ghi âm để dùng kèm, nhờ thế giảm được nhiều chữ Hán cần dùng. Thực ra họ có thể chỉ dùng chữ Kana, nhưng vì cho rằng làm thế lợi bất cập hại nên hiện nay vẫn dùng gần 2000 chữ Hán.

Nước ta chính thức bắt đầu "Thoát chữ Hán" từ năm 1919. Chữ Quốc ngữ đã cứu dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Pháp đồng hóa về ngôn ngữ. Thiển nghĩ đó là do thực dân Pháp thấy tiếng Việt và chữ Quốc ngữ có năng lực diễn đạt được các tri thức hiện đại và do đó đáp ứng nhu cầu khai hóa Việt Nam nên đã không buộc dân ta bỏ tiếng mẹ đẻ, chỉ dùng tiếng Pháp – như chúng đã thực hành với nhiều thuộc địa ở châu Phi. Quan điểm tiến bộ này đã tạo thuận lợi củng cố vị trí của chữ Quốc ngữ. Năm 1862 chính quyền Pháp mở trường Thông ngôn Sài Gòn, là trường học đầu tiên ở nước ta dạy chữ Quốc ngữ. Năm 1878 Thống đốc Nam Kỳ ký Nghị định yêu cầu đến năm 1882 toàn bộ giao dịch hành chính phải dùng chữ Quốc ngữ. Ngày 28/12/1918 vua Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử kiểu Hán học. Từ 1919, chữ Quốc ngữ được chính quyền thừa nhận là chữ viết duy nhất của Việt Nam.
"Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước". Một dân tộc hồn cốt mạnh sẽ có thể hiên ngang sánh vai cùng các dân tộc tiên tiến trên thế giới.
Chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, loại chữ tiên tiến ghi được toàn bộ tiếng nói và suy nghĩ của người Việt, nhìn chữ là đọc được âm, nghe lời nói là viết ra chữ, nói viết cơ bản như nhau; mỗi chữ có một âm đọc duy nhất, ít trường hợp chữ khác nhau mà âm đọc như nhau. Do gắn liền với tiếng nói nên chữ Quốc ngữ có sức sống mãnh liệt và luôn phát triển cùng tiếng Việt. Nhờ dùng chữ cái La tinh, là ký tự tiện lợi, thông dụng nhất, dễ học, dễ mã hóa, cơ khí hóa nên chữ Quốc ngữ dễ kết hợp với nhiều ngôn ngữ trên thế giới.

Hiển nhiên, như mọi chữ viết khác, chữ Quốc ngữ còn một số nhược điểm, nhưng vì không tác hại lớn nên không cần sửa đổi, bởi lẽ sửa đổi sẽ lợi bất cập hại.

Chữ Quốc ngữ đã đưa nền văn minh Việt Nam tiến sang kỷ nguyên phát triển chưa từng có. Thử tưởng tượng: nếu cho tới nay vẫn dùng chữ Hán hoặc Nôm thì đất nước ta sẽ như thế nào? Rõ ràng chữ Quốc ngữ đã làm một cú hích lịch sử đưa dân tộc Việt Nam ra khỏi vũng bùn lạc hậu, bước lên quỹ đạo phát triển sáng láng của nhân loại.

Nguyễn Hải Hoành
Nguồn:Tia Sáng

Post a Comment

Previous Post Next Post